Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam

Trong quá trình nhận đơn, thụ lý, giải quyết vụ án, theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu Tòa án có thể phải ra quyết định áp dụng một hoặc một vài biện pháp cần thiết nhằm đáp ứng một hoặc một số yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án sẽ thụ lý hoặc đang trong quá trình giải quyết. Vì nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (“BPKCTT”) sẽ ảnh h­ưởng xấu đến đười sống, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của đ­ương sự hoặc khó khăn, trở ngại cho việc giải quyết đúng đắn vụ án và quá trình thi hành án. Cũng chính vì vậy mà BPKCTT có thể được áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự, còn tất cả các biện pháp, quyết định khác chỉ có thể được áp dụng sau khi Tòa án đã thụ lý. BPKCTT là một giải pháp hiệu quả để bảo vệ khẩn cấp quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi Tòa án chưa xét xử, chưa ra bản án, quyết định giải quyết nội dung vụ án. Bởi vậy nên nó không phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự, nó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi ra quyết định áp dụng BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định này ngay trong quá trình chuẩn bị xét xử, hoặc khi Tòa án ra quyết định cuối cùng sẽ phải có phán quyết về BPKCTT mà Tòa án đã áp dụng.

Vì vậy có thể định nghĩa BPKCTT là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự  nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

  • Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Việc áp dụng BPKCTT giải quyết kịp thời các yêu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của bản thân cũng như những người sống phụ thuộc vào họ.

Việc áp dụng các BPKCTT kịp thời khắc phục hậu quả, thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, chống lại các hành vi hủy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ làm sai lệch nội dung vụ việc.

Việc áp dụng BPKCTT giúp bảo toàn tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. BPKCTT trở thành công cụ pháp lý vững chắc để các đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại, lao động. Với ý nghĩa quan trọng đó Bộ luật tố tụng dân sự 2004  đã có những quy định mới so với các pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động cho phép Tòa án áp dụng BPKCTT trước khi thụ lý vụ việc dân sự. Sự đổi mới này trong công tác lập pháp tạo điều kiện cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích của đương sự được kịp thời, có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của thực tế cuộc sống.

  • Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Hiện nay chưa có điều luật nào quy định về nguyên tắc áp dụng BPKCTT nhưng thông qua những nguyên tắc cơ bản mà BLTTDS quy định và từ chính các điều luật về BPKCTT ta có thể xác định được các nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng BPKCTT như sau:

  1. Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời

Việc áp dụng BPKCTT của Tòa án luôn đòi hỏi tính nhanh chóng và kịp thời và đây cũng là tính chất đặc trưng, cơ bản của biện pháp này. BPKCTT được áp dụng là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại, tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ và đảm bảo thi hành án.. Nếu không nhanh chóng và kịp thời thì tài sản sẽ bị tẩu tán, chứng cứ bị hủy hoại, tính mạng, sức khỏe của đương sự có thể bị ảnh hưởng…Tòa án phải áp dụng BPKCTT đúng thời điểm thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới được bảo vệ một cách hiệu quả nhất.

  1. Nguyên tắc đảm bảo quyền định đoạt của đương sự và những người có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT

Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 5 BLTTDS theo đó đương sự được tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lực chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Dựa trên nguyên tắc cơ bản này khi xây dựng các quy định về BPKCTT các nhà làm luật đã tôn trọng, đề cao quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự và những người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT thông qua việc quy định cho họ quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT. Khi họ có đơn yêu cầu thì Tòa án mới có cơ sở pháp lý để ra quyết định áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT khi không có đơn yêu cầu như cần giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm…..Quy định này thể hiện sự chủ động của Tòa án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị thiệt hại tính mạng, sức khỏe….những đối tượng rất cần sự quan tâm, giúp đỡ của xã hội.

  1. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên đương sự và người liên quan

Việc áp dụng BPKCTT là việc giải quyết theo yêu cầu của bên đương sự có yêu cầu, tuy nhiên khi áp dụng BPKCTT không chỉ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên có yêu cầu mà đồng thời phải xem xét bảo vệ quyền, lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT và những người liên quan. Điều này thể hiện thông qua việc người có yêu cầu áp dụng BPKCTT trong một số trường hợp phải thực hiện biện pháp bảo đảm, nếu yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng, người thứ ba thì phải bồi thường, Tòa án trong một số trường hợp cũng phải bồi thường cho người bị thiệt hại nếu việc áp dụng BPKCTT không đúng.           

Việc tìm hiểu những nguyên tắc áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự là rất quan trọng và cần thiết. Bởi vì chính việc tuân thủ những nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự khách quan của Tòa án trong quá trình giải quyết yêu cầu của người có quyền, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của đương sự và những người có liên quan.

  • Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay

Theo quy định tại Điều 114 Bộ Luật Tố tụng Dân Sự 2015 thì có các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:

  1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
  1. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
  2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
  3. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
  4. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
  5. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
  6. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
  7. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
  8. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
  9. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
  10. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
  11. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
  12. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
  13. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
  14. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
  15. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
  16. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.

Công Ty Luật TNHH SMPL 

Hotline: 0397011001

Địa chỉ: số 57, Đường N1, Phường Cát Lái, Thành phố Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh

Website: dichvuphaply.net

Email: [email protected]

Bài viết liên quan