Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của luật sư và nghề luật sư

– Trên thế giới

Khoảng thế kỷ V trước công nguyên, ở một số quốc gia cổ đại Châu Âu ( tiêu biểu là Hy Lạp và La Mã ) đã xuất hiện những người có các hoạt động giúp đỡ nguyên cáo hoặc bị cáo trong các vụ kiện hoặc bênh vực những người bị áp bức, bất công. Đây chính là hình thái ban đầu của luật sư và nghề luật sư. Sau một thời gian dài cho đến vài thế kỷ đầu sau công nguyên, ở các quốc gia phong kiến châu Âu đã hình thành một lớp người am hiểu về pháp luật, có khả năng tranh luận, chuyên làm công việc biện hộ và trợ giúp pháp lý cho người dân. Hoạt động của họ bước đầu đã mang tính chất nghề nghiệp, được xã hội và Nhà nước ghi nhận.

Khi các quốc gia châu Âu bước vào thời kỳ Trung cổ ( thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XV ), với sự cai trị hà khắc, chuyên chế và phản động của giai cấp phong kiến, cùng với sự thống trị về tư tưởng của nhà thờ Thiên chúa giáo, sự tự do dân chủ của người dân bị thủ tiêu hoặc hạn chế, do vậy mà nghề luật sư cũng bị hạn chế, không phát triển.

Trong các khoảng thời gian nói trên, Ở châu Á và các khu vực khác còn lại trên thế giới, do tính chất hà khắc trong chính sách cai trị và đặc điểm của văn hóa, tôn giáo nên vấn đề biện hộ, bào chữa chưa được thừa nhận tại các Tòa án, do vậy nghề luật sư chậm ra đời và không có sự phát triển bằng ở châu Âu.

Sau thành công của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các Nhà nước tư sản ở châu Âu và Bắc Mỹ ( thế kỷ 17 ), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và giao dịch dân sự, thương mại trên thế giới, luật sư và nghề luật sư đã phát triển nhanh chóng và rất mạnh mẽ. Ngày nay, trên thế giới – đặc biệt là ở các nước phát triển, luật sư và nghề luật sư có một vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, được Nhà nước và xã hội đặc biệt coi trọng.

– Ở Việt Nam

  • Giai đoạn trước 1945

Trong suốt thời kỳ cổ đại và thời kỳ Bắc thuộc, luật sư và nghề luật sư chưa xuất hiện. Trong thời đại phong kiến độc lập, đặc biệt là ở triều đại nhà Hậu Lê, nhà nước đã thừa nhận người dân có quyền kiện tụng, quyền nhờ người khác giúp hoặc bênh vực cho mình nên đã xuất hiện những người gọi là “ thầy cãi”,“ thầy kiện”- Đây là hình thái ban đầu của luật sư ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến trước khi bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị, ở Việt Nam vẫn chưa xuất hiện luật sư theo nghĩa hiện đại. Chỉ sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt Nam đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Năm 1930, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập các Luật sư đoàn bên cạnh các Tòa án ở Đông Dương, chính thức xác lập các tổ chức luật sư ở Việt Nam, việc đào tạo luật sư ở Việt Nam cũng bắt đầu được thực hiện.

  • Giai đoạn từ 1945 đến nay

Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 (Điều 67) đã khẳng định quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư bào chữa là quyền quan trọng của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ khi Hiến pháp 1946 chưa được công bố chính thức. Để khắc phục tình trạng thiếu luật sư, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại các Tòa án. Sắc lệrth số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho người không phải là luật sư cũng được bảo vệ quyền và lơi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ án dân sự.  Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 01/NĐ – VY ngày 12-01-1950 quy định về bào chữa viên để phù hợp với điều kiện Việt Nam khi đó, thể hiện mục tiêu của nhà nước dân chủ cộng hòa là xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ của chế độ mới.

Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng ngày 30/4/1975, đất nước ta đã thống nhất. Hiến pháp năm 1980 và Hiến Pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều quy định quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý. Cụ thể là đại hội Đảng toàn quốc năm 1986 đã tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên được ban hành ngày 18/12/1987. Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh tổ chức luật sư quy định tiêu chuẩn để được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư. Pháp lệnh cũng qui định về việc tổ chức các đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm đổi mới tổ chức hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước. Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Có thể nói Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế – quốc tế ở Việt Nam.

Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới to lớn cho Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống  pháp luật và các thiết chế cùng với cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Việt Nam đã ban hành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2007 thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001. Đến ngày 20/11/2012 Luật số 20/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư có hiệu thi hành ngày 1/7/2013 được ban hành. Luật Luật sư được ban hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đã mở ra nhiều triển vọng, vị thế mới cho nghề luật sư ở Việt Nam.

Công Ty Luật TNHH SMPL 

Hotline: 0907533111

Website: dichvuphaply.net

Email: [email protected]

Bài viết liên quan